Đề bài: Qua bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” em hãy phân tích hình tượng người nông dân nghĩa sĩ mộc mạc, chất phác nhưng nghĩa khí dũng cảm lần đầu tiên xuất hiện trong một tác phẩm văn học.

Bài văn mẫu

Hình tượng người nông dân từ bấy lâu đã đi vào trong văn học qua những vần thơ con chữ. Nhưng phải đến trong thơ ca của Nguyễn Đình Chiểu_Cây bút tài hoa của nhân dân Nam Bộ, “Ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc” mới thực sự để lại dấu ấn đậm nét và chân thực nhất. Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ Việt Nam đầu tiên nói đến phong trào nhân dân, đề cao người nông dân, người du kích chống Pháp ý thức về nhiệm vụ và quyền lợi của mình. Tiêu biểu là tác phẩm “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” hình tượng người nông dân nghĩa sĩ hiện lên với những nét mộc mạc, chất phác nhưng nghĩa khí dũng cảm lần đầu tiên xuất hiện trong một tác phẩm văn học.

Bài văn tế ra đời trong hoàn cảnh cam go của những ngày đầu kháng chiến chống Pháp. Ngày rằm tháng 11 năm 1861, trong trận tấn công đồn Cần Giuộc nghĩa binh bị hy sinh khoảng hai mươi người và phải rút lui. Theo lệnh của tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang, Nguyễn Đình Chiểu viết bài tế này trước là để tế và bày tỏ lòng biết ơn, sự thương xót đối với các nghĩa sĩ, sau là để khích lệ tinh thần yêu nước chống giặc của nhân dân.

Người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc hiện lên với nét mộc mạc chất phác.Trước tiên họ là những người nghèo khổ với dáng điệu hiền lành đến tội nghiệp chỉ biết “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”. Những con người làm lụng vất vả quanh năm để mưu sinh cho cuộc sống “chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ”. Họ sống một cuộc sống lạc hậu bó hẹp với ruộng đồng, với công việc của mình “việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ mắt chưa từng ngó”. Thủ pháp liệt kê, nhịp điệu 2/2/2... và nghệ thuật tiểu đối trong câu cùng với những từ ngữ giản dị mang màu sắc thôn dã đã khắc họa được hình ảnh những dân Nam Bộ với vẻ chất phác, đơn sơ trong suy nghĩ và tính cách của con người.

Cuộc sống vốn bình yên nhưng vì sao họ lại phải trở thành người nghĩa sĩ mà “tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ”? Là bởi “Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây/ Một bàn cờ thế phút sa tay” kéo theo biết bao những đau thương, mất mát mà người dân phải gánh chịu. Chính điều đó đã khiến cho những người nông dân Cần Giuộc ghét giặc như một lẽ tự nhiên “Ghét thói mọn như nhà nông ghét cỏ/ Bữa thấy bòng bong che trắng lốp muốn tới ăn gan/ Ngày xem ống khói đen sì muốn ra cắn cổ”. Đọc những câu văn khiến ta nhớ đến hình ảnh của Trần Quốc Tuấn ở thế kỉ XIII với lòng căm thù giặc sâu sắc “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa, chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù”. Tinh thần yêu nước, căm hờn lũ giặc vẫn được tiếp nối biết bao đời nay. Cách viết cách nói so sánh của Đồ Chiểu hoàn toàn phù hợp với tâm lí nghề nghiệp và lối suy nghĩ của người nông dân “Trông tin quan như trời hạn trông mưa”, “Ghét thói mọn như nhà nông ghét cỏ” đã phản ánh chân thực sự căm ghét quân Pháp_những kẻ xâm lược hòng muốn chiếm lấy nước ta.

Tuy họ là những người nông dân chất phác nhưng khi giặc xâm lăng Tổ quốc họ là người có nghĩa khí dũng cảm, xả thân quên mình vì nước. Họ tự nguyện đánh giặc “Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.” Phải họ căm ghét, họ quyết tâm đánh giặc cái khí thế, cái tinh thần ấy tương phản mạnh mẽ với thực lực của người nông dân. Họ chỉ là những “người dân ấp dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ” đâu có được xuất thân dòng dõi nhà binh, đâu có được rèn luyện chiến đấu, họ nào biết súng gươm ấy vậy mà họ quên mình vì “tấc đất tấc vàng” của quê hương.

Người chiến sĩ ấy đánh giặc chẳng có súng đạn, bao tấu, bầu ngòi. Trong tay họ vũ khí chiến đấu là những vật dụng, đồ nghề của nhà nông là ngọn tầm vông, là dao tu, là nón gõ hay hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, rồi là lưỡi dao phay... những công cụ thô sơ đó tương phản với trang thiết bị của địch là súng đạn vô tình, có tầu sắt, có đồng hồ súng nổ. Cuộc chiến đấu của các nghĩa binh rõ ràng là không có tổ chức, không có hiệu lệnh, đội ngũ, kỷ luật, vũ khí lại thô sơ, họ chỉ mặc cho mình “một manh áo vải”. Chính những “cái không” ấy làm nổi bật lên “cái có” vô giá tiềm ẩn trong con người Cần Giuộc. Bởi họ có ý thức quyết tâm cao độ đánh giặc, có một tinh thần yêu nước không đổi, có một lòng căm thù giặc đến vô cùng. Điều đó đã làm nên sức mạnh vô song để họ đạp rào lưới tới, coi giặc cũng như không, không sợ đạn to đạn nhỏ mà liều mình xông vào như chẳng có, rồi kẻ đâm ngang, người chém ngược làm cho quân giặc khiếp sợ. Họ đã “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”. Những người nông dân Cần Giuộc với tinh thần đánh giặc quả cảm, anh dũng họ nối tiếp tư tưởng “Thà chết vinh còn hơn sống nhục” của dân tộc đã làm nên sức mạnh kì vĩ, dù hiệu quả trận đánh không đáng kể song khí thế nghĩa quân như gáo nước lạnh tạt vào mặt quân thù với sự cảnh cáo và khẳng định quyền tự chủ, lòng yêu nước của nhân dân ta.

Bài văn tế là khúc bi tráng ca về hình tượng người nông dân-nghĩa sĩ Cần Giuộc những con người mang nét đẹp mộc mạc chất phác mà anh dũng, hào hùng. Hình tượng vừa đẹp vừa đáng cảm phục, nể trọng bởi sự hy sinh cao cả. Những con người ấy vừa đáng thương vừa đáng tiếc để lại trong lòng người đọc, người nghe sự cảm mến, kính phục mà cũng xót xa, trách móc. Gửi vào tiếng khóc là sự xót thương của tác giả dành cho những người hùng dân tộc là khát khao, mơ ước có được một cuộc sống bình yên, ấm no cho nhân dân, đất nước sạch bóng quân thù của cụ Đồ Chiểu.

So sánh với các đỉnh cao của văn học yêu nước chống giặc ngoại xâm của thế kỉ trước như thơ thần “Nam quốc sơn hà”, “Dụ chư tì tướng hịch văn”, “Bình Ngô đại cáo”... đây là lần đầu tiên hình tượng người nông dân Việt Nam đi vào trong tác phẩm văn học với vóc dáng, tính cách, công việc, tình cảm, cảm xúc được bộc lộ rõ nét và chân thành, thuần phác nhất với tất cả những đặc điểm của người nông dân Việt và những đặc trưng của người Nam Bộ thân thương. Người nông dân nghĩa sĩ trong “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” trở thành biểu tượng điển hình, là trung tâm cho sự ca tụng, ngợi ca cho tình cảm yêu nước và lòng căm thù giặc, cổ vũ và động viên tinh thần chiến đấu của con người Việt Nam. Điều đó đã thể hiện được quan điểm sáng tác “Văn dĩ tải đạo”.

Cùng với các bài văn tế khác như “Văn tế Trương Định”, “Văn tế Phan Tòng”, “Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh”... thì “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là tác phẩm tiêu biểu và thành công nhất cho thể loại này làm nên tên tuổi của Đồ Chiểu. Hình ảnh người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc được hiện lên sinh động qua cách sử dụng ngôn ngữ bình dân, cùng với kết cấu ngôn ngữ phủ định trùng điệp. Khép lại trang sách nhưng những con người ấy còn mãi lưu giữ trong trái tim, trong kí ức của một thời sử dân tộc. Đó là tấm gương sáng, là truyền thống quý báu tiếp nối tiếp của dòng máu con Lạc cháu Hồng.

Như vậy lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc hình tượng người nông dân được khắc họa chi tiết, tài tình như thế. Người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã thực sự hiện lên là những con người mộc mạc, chất phác nhưng nghĩa khí dũng cảm. Họ là hình ảnh đáng tự hào làm nên truyền thống yêu nước lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt.