Đề bài: Phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu

Bài văn mẫu

    Phan Bội Châu là một nhà yêu nước, nhà cách mạng lớn đầu thế kỉ XX. Thơ văn của ông tràn ngập tinh thần yêu nước trên cả hai mảng sáng tác chữ Hán và sáng tác chữ Nôm. Tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương được sáng tác vào năm 1905 trước khi ông lên đường sang Nhật Bản. Tác phẩm cho thấy bầu nhiệt huyết tìm đường cứu nước cháy bỏng của người chí sĩ cách mạng.

    Chí làm trai làm một phạm trù quan trọng trong văn học trung đại, nó được thể hiện không chỉ ở trong văn học dân gian: “Làm trai cho đáng nên trai/ Xuống đông đông tĩnh, lên đoài đoài yên” mà còn thể hiện đậm nét trong các sáng tác trung đại: “Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển” (Chí làm trai – Nguyễn Cống Trứ)…. Và đến Phan Bội Châu, ông cũng tiếp nối truyền thống của văn học dân tộc, nhưng có những bước tiến mới, với quan niệm mới mẻ:

    Làm trai phải lạ ở trên đời

    Há để càn khôn tự chuyển dời.

    Đối với Phan Bội Châu làm trai phải “lạ” tức là phải có quan niệm, lí tưởng sống cao đẹp, dám mưu đồ những việc phi thường, hiển hách. Ông không chấp nhận sự xoay vần của vũ trụ, để nó ảnh hưởng đến số phận, cuộc đời mình. Phan Bội Châu cho rằng làm trai không được để bản thân ở thế bị động, để số phận quyết định đời mình mà phải là một nam nhi chủ động, tự tạo nên con đường của bản thân. Điều này đã được minh chứng rõ nét trong cuộc đời của ông. Trước cảnh nước mất nhà tan, giặc ngoại xâm tràn vào bờ cõi, nhiễu nhương đời sống nhân dân, là một người yêu nước thương nòi nên Phan Bội Châu không thể đứng im nhìn cảnh tượng đau lòng đó, ông mang quyết tâm lớn, ra nước ngoài (Nhật Bản) để học tập và tìm con đường cứu nước đứng đắn cho dân tộc. Cuộc đời ông đã minh chứng cho cái “lạ” mà ông thể hiện trong thơ ca. Lí tưởng sống cao đẹp, vì dân vì nước của ông thật đáng trân trọng và tự hào. Hai câu thơ đầy khẩu khí, giọng điệu vô cùng tự tin, táo bạo.

    Hai câu thực thể hiện ý thức trách nhiệm của cá nhân đối với thời cuộc:

    Trong khoảng trăm năm cần có tớ,

    Sau này muôn thuở há không ai?

    Câu thơ thể hiện những khao khát cao đẹp của một nhân cách lớn. “Trăm năm” là cả một đời người, với nhiều biến động của lịch sử xã hội, nhưng ông vẫn khẳng định “cần có tớ” để đem hết tài năng của bản thân cống hiến, hoàn thành sứ mệnh của kẻ làm trai, trả món nợ công danh và lưu danh muôn thuở “Làm trai đứng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông” (Nguyễn Công Trứ). Câu thơ gợi nhắc ta nhớ đến bài “Bài ca ngất ngưởng” của Nguyễn Công Trứ: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” tức mọi việc trong trời đất đều thuộc phận sự của ta. Câu thơ cho thấy sự gặp gỡ của những tư tưởng lớn, nhân cách lớn. Ở họ đều có ý thức sâu sắc về trách nhiệm của cá nhân đối với thời cuộc, học sẵn sàng gánh vác sứ mệnh mà lịch sử giao cho. Câu thơ thứ tư hướng đến thế hệ tương lai, những người tiếp nối sự nghiệp, cho thấy ý thức, khát vọng, cũng như niềm tin của ông vào những thanh niên thế hệ tiếp nối.

    Trước tình cảnh của đất nước Phan Bội Châu thể hiện thái độ hết sức quyết liệt:

    Non sông đã chết, sống thêm nhục

    Hiền thánh còn đâu học cũng hoài

    Ông nhận thức sâu sắc về thực trạng đất nước lúc bấy giờ “non sông đã chết” – đất nước đã mất chủ quyền, mảnh đất ông cha đổ bao xương máu mới giữ được nay lại rơi vào tay quân giặc, nhân dân phải sống trong cảnh nô lệ, lầm than. Cuộc sống đó khiến ông cảm thấy “sống thêm nhục” nó là biểu hiện sâu sắc của lòng yêu nước. Trong câu thơ dịch chưa truyền tải hết tinh thần của nguyên tác: “Giang sơn tử hĩ đồ nhuế/ Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si” câu thơ đầy mạnh mẽ, tràn ngập cảm hứng phủ định về nền học vấn Nho học đã lỗi thời, không còn phù hợp với hoàn cảnh đất nước. Để từ đó ông nêu lên khát vọng hành động và tư thế lên đường:

    Muốn vượt bể Đông theo cánh gió,

    Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi.

    Tác giả dựng lên bối cảnh kì vĩ, to lớn đó là biển đông, là những ngọn gió lớn, những đợt sóng bạc, các sự vật to lớn như vậy mới có thể thể hiện đầy đủ cái hùng tâm tráng trí ôm trùm thiên hạ của một con người yêu nước nồng nàn. Đồng thời cũng làm nổi bật tư thế “bay lên” cho thấy con người có tầm vóc lớn lao, sánh ngang vũ trụ. Câu thơ là kết tinh trọn vẹn khát vọng, hành động đẹp đẽ của Phan Bội Châu: ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đồng thời cũng là cách thức ông thỏa chí làm trai.

    Ngôn ngữ thơ cô đọng, giàu sức truyền cảm. Giọng điệu thơ tâm huyết, sâu lắng, đầy sôi sục, hào hùng. Những vần thơ có tác động mạnh mẽ với tâm lí người đọc, nó như một bài tuyên truyền cổ vũ, động viên con người hãy đứng lên và hạnh động vì đất nước.

    Xuất dương lưu biệt đã khắc họa một cách chân thực và lãng mạn vẻ đẹp hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng Phan Bội Châu đầu thế kỉ. Ông mang trong mình những tư tưởng canh tân mới mẻ, táo bạo với lòng nhiệt huyết sục sôi, cuộn trào, khát vọng lên đường cháy bỏng để tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc.