Đề bài: Phân tích bài thơ "Tự do" của Ê-luy-a.

Bài văn mẫu

   Pôn Ê-luy-a (1895-1952) là nhà thơ lớn nước Pháp. Ông từng tham gia vào trào lưu siêu thực. Trong chiến tranh thế giới thứ II, ông thoát ly chủ nghĩa siêu thực, cùng nhân dân Pháp tham gia nhiều hoạt động chính trị: chống chiến tranh, chống đế quốc, chống phát xít.

   Ông đã tạo ra một hình thức thơ mới mẻ, giàu trí tuệ và tràn đầy khát vọng nhân văn. Thơ ông hàm chứa suy luận trữ tình triết lý. Trong thơ ông, dấu ấn chủ nghĩa siêu thực khá đậm nét và mang đậm chất trữ tình chính trị, hơi thở của thời đại.

   Tự do được sáng tác vào mùa hè năm 1941, lúc Pháp đang bị phát xít Đức xâm lược. Bài thơ được in trong tập "Thơ ca và chân lý, 1942". Bài thơ được coi là thánh ca của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ gồm 21 khổ thơ, không kể dòng cuối cùng chỉ là chữ TỰ DO. Mỗi khổ 4 dòng trong đó 3 dòng đầu viết theo thể thơ 7 âm tiết, 1 dòng cuối (cũng là điệp khúc của toàn bài) chỉ có 4 âm tiết. Nguyên bản bài thơ không có vần, không có các dấu ấn chấm câu, chấm hết cuối bài.

   Với chủ đều thể hiện khát vọng tự do cũng là lời kêu gọi hành động vì tự do của nhà thơ (và của cả dân tộc Pháp) khi đất nước bị phát xít đức xâm lăng. Không thể sống trong nô lệ, Tự Do trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, là lương tâm của thời đại.

   "Tôi viết tên em" - TỰ DO nổi bật lên hình thức lắp kết cấu, điệp từ "trên...trên" theo kiểu "xoáy tròn"; câu thứ tư mỗi khổ như một điệp khúc. Từ "trên" thể hiện cả không gian và thời gian: chỉ địa điểm - không gian (tôi viết Tự Do ở đâu), chỉ thời gian (tôi viết Tự Do khi nào). "Tôi viết tên em" lên mọi không gian, thời gian.

   Cụ thể: viết lên trang vở, trên bàn học, trên cây xanh, trên đất cát, trên tuyết, trên gươm đao người lính, trên mũ áo các vua quan.

   Trừu tượng: Viết trên thời thơ ấu âm vang, viết trên những mảnh đời trong xanh, trên ao mặt trời ẩm mốc, viết trên hồ vầng trăng lung linh...

   Tự do hiện diện trong mọi không gian cụ thể và cả trong giấc mơ, trí tưởng tượng, hồi ức và cả những gì không thể cảm nhận bằng trực giác thông thường. Trường phái siêu thực không phân biệt ranh giới rõ rệt giữa không gian, thời gian. "Tôi viết tên em" khi đang tuổi ấu thơ; ban đêm, ban ngày, lúc hửng đông, lúc đêm tối, khi ở ngoài đại dương, trên núi cao; lúc bão giông; khi bình yên,. Như vậy, dù ở đâu, theo nghĩa nào thì tôi đều biểu hiện tự do cháy bỏng, mãnh liệt..."Em" - TỰ DO đã chiếm trọn không gian của "tôi"; chiếm hết thời gian của "tôi" và suy nghĩ hành động của "tôi" luôn hướng về "em".

    Tôi "gọi tên em" - TỰ DO

                (khổ cuối)

   Nghệ thuật nhân hóa "em" (chính là TỰ DO), làm cho Tự do trở thành một nhân vật có hồn và "em" trở thành những gì đáng yêu, đáng trọng nhất. "Gọi tên em": cảm xúc đã bật thành tiếng, đã thốt nên lời, tình yêu tự do đã đẩy lên đỉnh điểm. Tự do là sức mạnh nhiệm màu tái sinh những cuộc đời. Tình yêu tự do cũng là lời kêu gọi hy sinh vì tự do.

   Cấu kết vòng tròn: như chưa hề kết thúc - mở ra một kết cấu mới, cảm xúc mới. Tự do như là điều không có điểm dừng, bất diệt. Đặt vào hoàn cảnh nước Pháp lúc bấy giờ đang mất tự do, nhiều vùng bị phát xít Đức chiếm đóng, bài thơ trở thành bài thánh ca, nêu cao tinh thần đấu tranh vì tự do.

   Như vậy, có thể nói giá trị nội dung của bài thơ " Tự do" thể hiện tình yêu tự do tha thiết tuôn trào trong trái tim nhà thơ đã đồng vọng trong tâm hồn cả dân tộc. Khát khao tự do biến thành khát khao hành động để giành lấy tự do cho tất cả mọi người. Bài thơ vẫn còn nguyên giá trị vì đến giờ này nhiều nước trên thế giới còn bị xâm lược, nhiều con người còn mấy tự do.

   Về giá trị nghệ thuật bài thể sử dụng các biện pháp nghệ thuật như: trùng điệp, thủ pháp liệt kê hình ảnh, nhân hóa, lặp từ ngữ, cấu trúc...qua các khổ thơ. Mạch cảm xúc hướng tuôn trào, triền miên, mạnh mẽ. Hình thức thể hiện đặc biệt với tầng lớp hình ảnh lặp lại, chồng lên nhau, nối tiếp nhau. Hình thức nhân hóa TỰ DO thành một nhân vật có linh hồn thực sự, giàu biểu cảm "em", tạo cách nói gần gũi nhưng cũng thiêng liêng, sâu sa.