Đề bài: Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện Vợ nhặt

Bài văn mẫu

   Văn học giai đoạn 1954 – 1975 là văn học đi theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Các tác phẩm vì thế thường mang trong mình một xu hướng chung là cổ vũ chiến đấu, đôi khi không tránh khỏi sự đơn điệu. Vợ chồng A Phủ có thể coi là tác phẩm hiếm hoi, trên nền chung của văn học giai đoạn này nhưng vẫn có những bứt phá riêng, tạo dấu ấn cho tác phẩm thông qua hai giá trị xuyên suốt là giá trị hiện thực và nhân đạo.

   Trước hết tác phẩm giàu giá trị hiện thực. Giá trị hiện thực trong một tác phẩm văn học có thể hiểu là sự phản ánh hiện thực cuộc sống, con người trong một tác phẩm nào đó, qua đó nhằm phát hiện, tố cáo, vạch trần hoặc phản ánh thực trạng cuộc sống đương thời.

   Giá trị hiện thực trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ được thể hiện rõ qua hai nhân vật là Mị và A Phủ, mà số phận của Mị thể hiện nhiều hơn cả. Mị vốn là cô gái xinh đẹp, nhưng sinh ra trong một gia đình nghèo khổ, từ khi chưa sin ra Mị đã mang trong mình mối nợ truyền kiếp từ cha mẹ để lại. Cha mẹ Mị vì nghèo nên khi lấy nhau phải vay tiền của Thống lí Pa Tra, món nợ ấy đã trả biết bao năm vẫn chưa hết, sau trở thành gánh nặng đè lên cuộc đời cô, đẩy Mị vào cuộc sống đầy tăm tối.

   Thống lí Pá Tra muốn Mị làm con dâu gạt nợ, mặc dù Mị đã cầu xin cha để mình làm nương trả dần. Nhưng ý quan trên đâu thể kháng lại, đặc biệt khi Mị vừa có nợ, vừa là một thảo dân nhỏ bé. Dựa vào tục lệ cổ hủ bắt vợ, thống lí Pá Tra đã thực hiện được mưu đồ của mình, Mị chính thức trở thành con dâu gạt nợ. lấy về không tình yêu thương, thực tế Mị chỉ là một nô lệ trong gia đình thống lí. Ngòi bút của Tô Hoài đã vạch trần những hủ tục đẩy con người vào bước đường cùng, tước đoạt quyền tự do, hạnh phúc của một cn người.

   Mị sống ở nhà chồng mà tựa như sống ở địa ngục. Mị làm việc quanh năm, không có lúc nào ngơi chân, ngơi tay. Mị không còn là cô gái xinh đẹp, hoạt bát, yêu đời, với tiếng sáo véo von làm say lòng biết bao người mà trở thành con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa. Thế giới của Mị chỉ có đồng, nương, ruộng hoặc một cân phong nhỏ, mà thực chất là nhà tù nhỏ bé, chật hẹp, chỉ có ô cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, nhìn ra ngoài chỉ thấy mờ mờ trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. thật khó có thể tưởng tượng ra một cô gái yêu đời, đã có lúc sẵn sang dung cái chết để cự tuyệt sự hành hạ về thể xác lại có thể chai lì về cảm xúc đến như vậy. Ngòi bút của Tô Hoài càng trở nên sắc sảo hơn, khi cho bạn đọc thấy bàn tay độc ác của kẻ cầm quyền đã hãm hại, cầm tù tâm trí, thể xác của con người đến mức độ nào.

   Và để giá trị hiện thực càng nổi bật hơn nữa, cuối tác phẩm khi Mị cứu A Phủ, điều cô nghĩ duy nhất đó là cứu người này, bởi bản thân mình “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình mà nhà nó rồi, thì chỉ biết đợi ngày mà rũ xuống ở đây thôi… Người kia việc gì mà phải chết”. Thân đã cúng trình mà nhà thống lí thì mãi mãi phải sống ở đây cho đến lúc chết, tâm lí nơm nớp lo sợ đó đã ăn sâu vào tiềm thức của bao người, khiến họ không thể vung thoát. Sự ngu muội của người dân, cách thống trị thần quyền và cường quyền độc ác đã khiến con người ta hoảng loạn, sợ hãi, không thể tự cứu lấy chính mình.

   Để bức tranh hiện thực thêm đậm nét, A Phủ được Tô Hoài miêu tả bổ sung. A Phủ cũng là nô lệ, là kẻ gạt nợ của thống lí vì đánh A Sử. Cường quyền nằm trong tay kẻ bất nhân, nên những người vô danh tiểu tốt như A Phủ luôn bị hàm oan. Giữa trốn ngu muội đó làm gì có công lí, làm gì có công bằng. Bởi vậy người con trai khỏe mạnh là A Phủ đã trở thành nô lệ của nhà thống lí, thậm chí vì làm mất bò còn bị trói đứng cho đến chết nếu không có Mị kịp thời cứu.

   Không chỉ giàu giá trị hiện thực mà Vợ chồng A Phủ còn giàu giá trị nhân đạo. Giá trị nhân đạo của tác phẩm thể hiện chủ yếu ở con đường các nhân vật thoát khỏi bóng tối, sự u mê để đến với ánh sáng. Mị có hai lần nổi loạn, trong đêm tình mùa xuân và đêm đông cứu A Phủ, cứu chính mình. Trong lần nổi loạn đầu tiên, Mị tác giả đã vô cùng công phu bài trí các yếu tố logic, hợp lí để thúc đẩy tâm trạng nhân vật phát triển. Khung cảnh mùa xuân ấm áp, tràn ngập tình xuân, những bông hoa đua nở, nhưng chiếc váy mèo sặc sỡ trên triền núi và tiếng trẻ con vui đùa phần nào đã tác động đến tâm lí của Mị. Nhưng chỉ có vậy thôi không đủ mà còn phải có tác động của rượu và tiếng sáo. Rượu là chất xúc tác khiến con người ta nửa say, nửa tỉnh, để dũng cảm nhớ về quá khứ, Còn tiếng sáo là tác nhân chính, lay thức niềm tâm can sâu thẳm của Mị, để Mị nhớ về những ngày trước: yêu đời, hồn nhiên, ham sống. Tiếng sáo dập dờn, bừng lên trong Mị khao khát được đi chơi, và Mị đã hiện thực hóa nó bằng hành động. Mị vào nhà thay đồ chuẩn bị đi thì bị A Sử trói đứng lại. Dù bị trói buộc về thể xác những tâm hồn cô đã phiêu diêu sống cùng những ngày trước.

   Lần nổi loạn thứ hai là trong đêm đông cứu A Phủ. A Phủ bị trói đứng, biết bao lần Mị đi sưởi chân tay mà không quan tâm. Chỉ khi nhìn thấy dòng nước mắt chảy ra từ hốc mắt đen ngòm, lúc đó cô đã động long thương cảm. Đó là tình yêu thương từ những con người cùng khổ, sự đồng cảm, chia sẻ và yêu thương đã khiến Mị có một quyết định vô cùng bất ngờ đó là lấy dao giải cứu A Phủ. Sợi dây hữu hình đã được cắt đứt, A Phủ đã được cứu. Nhưng sợi dây vô hình là thần quyền vẫn trói dữ, nhưng trong một thoáng suy nghĩ cô đã một lần nữa cắt đứt sợi dây đó, giải cứu chính mình, đi theo A Phủ.

   Con đường giải cứu bản thân, tìm lại niềm hi vọng sống của Mị không hề đơn giản. Nó được Tồ Hoài đặt trong vô vàn thử thách khắc nghiệt khác nhau để bản thân nhân vật phải tự vượt qua, cứu lấy chính mình. Mị và A Phủ dắt nhau bỏ trốn đi trong đêm tối, họ hai con người sau những tháng ngày giam cầm đã được tự do, rạch tan bóng tối, mở ra ánh sáng, tương laic ho chính mình.

   Tô Hoài nâng niu, trân trọng từng bước đi của hai nhân vật. Ông sung sướng tự hào biết bao khi họ đã vượt qua tăm tối tìm thấy lí tưởng, ánh sáng – tác phẩm thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc. Đồng thời ông cũng vạch trần thối nát của chính quyền phong kiến miền núi – thể hiện giá trị hiện thực sắc nét.