Đề bài: Phát biểu cảm nghĩ của em sau khi đọc truyện Em bé thông minh.

Bài văn mẫu

   Từ thuở xưa, nhân dân ta đã coi trọng trí tuệ, bởi trí tuệ giúp con người vượt qua được khó khăn, thử thách trong cuộc sống hàng ngày. Bằng trí tưởng tượng, họ đã sáng tạo ra những nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp của trí tuệ. Truyện Em bé thông minh đề cao trí khôn dân gian (qua hình thức giải những câu đố, vượt những thử thách oái oăm ...), từ đó tạo ra tiếng cười vui vẻ, hồn nhiên nhưng không kém phần thâm thúy. Trong truyện, trí thông minh của em bé được thử thách cả thảy bốn lần.

   Lần đầu, em trả lời câu hỏi éo le của viên quan: Trâu cày một ngày được mấy đường?

   Lần thứ hai, em hóa giải cái lệnh ngược đời của vua về chuyện ban cho dân làng ba con trâu đực, bắt nuôi sao cho chúng đẻ thành chín con trong một năm ...

   Lần thứ ba, em vượt qua thử thách cực kì khó khăn: từ thịt một con chim sẻ, phải nấu thành ba mâm cỗ theo yêu cầu của nhà vua.

   Lần thứ tư là làm được công việc oái oăm mà sứ thần nước ngoài thách đố: xâu một sợi chỉ mảnh qua đường ruột của một chiếc vỏ ốc vặn.

   Thử thách càng ngày càng khó nhưng chú bé đều vượt qua một cách dễ dàng. Điều đó chứng tỏ trí thông minh tuyệt vời của chú.

   Bối cảnh của truyện là thời mà chế độ phong kiến Việt Nam đã phát triển đến mức độ cao. Trên có vua quan, dưới có tổ chức làng xã. Vua biết trọng dụng người hiền tài để phò tá cai trị đất nước. Bởi vậy nên mới có chuyện nhà vua sai một viên quan đi dò la để tìm cho ra người tài giỏi. Viên quan ấy đã đi rất nhiều nơi mà vẫn chưa tìm thấy ai như ý.

   Một hôm, viên quan đi qua làng nọ, thấy hai cha con chú bé đang làm ruộng. Cha đánh trâu cày, con đập đất, những công việc quen thuộc hằng ngày của nhà nông. Khi viên quan cất giọng hách dịch hỏi: - Này lão kia! Trâu của lão cày một ngày được mấy đường? thì người cha vì bất ngờ và hoảng hốt nên cứ đứng ngẩn người ra chưa biết trả lời thế nào. Đứa con trai mới chừng bảy tám tuổi đã nhanh miệng vặn lại quan rằng: - Thế xin hỏi ông câu này đã: Nếu ông trả lời đúng ngựa của ông đi một ngày được mấy bước, tôi sẽ cho ông biết trâu của cha tôi cày một ngày được mấy đường.

   Trong lần đầu tiên này, sự nhanh trí của chú bé thể hiện ở chỗ đã đánh đố lại viên quan. Chú bé biết lợi dụng chính cái lắt léo trong câu hỏi để đẩy ông ta vào thế bí. Chú đã xoay chuyển được tình thế, giành phần thắng về mình. Có ai để ý đếm bước chân ngựa trên đường? Vậy thì có ai đếm đường trâu cày trong một ngày bao giờ? Mục đích của viên quan là nêu câu hỏi cắc cớ để dồn cho kẻ bị hỏi vào thế lúng túng, thì chú bé đã hỏi lại viên quan với ngụ ý: Nếu ông không trả lời được câu hỏi của tôi thì cha tôi không việc gì phải trả lời ông cả. Thái độ mạnh bạo, tự tin cùng câu hỏi thông minh của chú bé khiến viên quan nọ giật mình, há hốc mồm sửng sốt và nghĩ rằng có lẽ chú bé chính là nhân tài mà nhà vua đang cần tìm. Ông ta vội vã trở về triều, trong bụng mừng thầm.

   Nghe viên quan tâu lại đầu đuôi câu chuyện về chú bé, nhà vua mừng rỡ nhưng muốn thử lại cho chắc chắn: Vua sai ban cho làng (của chú bé) ba thúng gạo nếp với ba con trâu đực, ra lệnh phải nuôi làm sao ba con trâu ấy đẻ thành chín con, hẹn năm sau phải đem nộp đủ, nếu không thì cả làng phải tội.

   Cái lệnh kì quặc xưa nay chưa từng thấy của nhà vua làm cho dân làng lo lắng, sợ hãi, họp bàn liên tục mà không tìm ra cách giải quyết. Giải quyết sao được bởi xưa nay trâu đực có đẻ con bao giờ? Nhưng dẫu phi lí đến đâu đi chăng nữa thì đó cũng là lệnh vua. Không thực hiện đúng lệnh là mắc tội khi quân, ắt cả làng phải chịu tội chết. Đoạn kể về thái độ của dân làng khi nhận được lệnh vua thật cụ thể, sinh động, làm nổi bật không khí lo sợ đến kinh hoàng: Từ trên xuống dưới, mọi người đều tin là một tai họa.

   Chuyện đến tai chú bé, chú thản nhiên bảo cha: - Chả mấy khi được lộc vua ban, cha cứ thưa với dân làng giết thịt hai con trâu và đồ hai thúng gạo nếp để mọi người ăn một bữa cho sướng miệng. Còn một con trâu và một thúng gạo, ta sẽ xin làng làm phí tổn cho cha con ta trẩy kinh lo liệu việc đó.

   Sự tính toán đâu ra đấy và thái độ bình tĩnh, tự tin ấy quả là khác thường, kì lạ đối với cái tuổi lên bảy, lên tám của chú bé. Nghe con nói, người cha sợ hãi khuyên can, chú bé vẫn khăng khăng quả quyết: "Cha cứ mặc con lo liệu, thế nào cũng xong xuôi mọi việc".

   Lần thứ hai này, chú bé vượt qua thử thách bằng cách khéo léo gài bẫy để nhà vua phải công nhận sự vô lí trong lệnh của mình.

   Nghĩ sao làm vậy, chú cùng cha lên kinh đô, tìm cách đến tận trước ngai vàng và ra mắt vua với điệu bộ, lời lẽ cố tính gây chú ý đối với mọi người: lẻn vào sân rồng, khóc um lên. Thấy chuyện lạ, vua sai lính điệu vào, phán hỏi: - Thằng bé kia, mày có việc gì? Sao lại đến đây mà khóc. Chú bé chỉ chờ có thế để thực hiện mưu kế của mình: - Tâu đức vua! Mẹ con chết sớm mà cha con thì không chịu đẻ em bé để chơi với con cho có bạn có bè, cho nên con khóc. Dám mong đức vua phán bảo cha con cho con được nhờ.

   Lời nói ngộ nghĩnh của chú bé khiến nhà vua và quần thần đều bật cười về sự vô lí của nó. Vua phán: - Cha mày là giống đực làm sao mà đẻ được!. Vậy là chú bé đã lừa nhà vua vào tròng một cách nhẹ nhàng, êm ái: - Thế sao làng con lại có lệnh trên bắt nuôi ba con trâu đực đẻ thành chín con để nộp đức vua? Giống đực thì làm sao mà đẻ được ạ!.

   Hiểu ý chú bé, đức vua bật cười bảo: - Ta thử đấy mà!... Chú bé đã tương kế tựu kế, dùng thuật gậy ông lại đập lưng ông để giành phần chủ động về mình, mạnh dạn lấy cái phi lí trong lời lẽ của mình để buộc đức vua phải tự công nhận sự phi lí trong lệnh của đức vua. Trí thông minh nhanh nhạy, tài ứng đối trôi chảy, lí lẽ sắc sảo của chú bé làm cho đức vua và triều thần đều chịu thằng bé là thông minh lỗi lạc.

   Câu chuyện càng trở nên hấp dẫn khi chú bé lần lượt vượt qua hết thử thách này đến thử thách khác. Tuy đã tận mắt chứng kiến khả năng ứng xử thông minh của chú bé nhưng đức vua vẫn muốn thử một lần nữa. Những lần trước, trí thông minh của chú bé thể hiện qua lời nói; đức vua muốn xem trí thông minh ấy thể hiện ra sao qua hành động.

   Đức vua sai sứ giả mang tới cho chú bé một con chim sẻ và truyền lệnh cho chú bé phải làm thịt chim, dọn thành ba mâm cỗ. Không chút bối rối, chú bé bảo cha lấy cho mình một cây kim may rồi đưa cho sứ giả và bảo: - Ông cầm lấy cái này về tâu với đức vua xin rèn cho tôi thành một con dao để xẻ thịt chim. Phản ứng của chú bé thật nhanh nhạy và cách xử trí cũng thật là đáng phục. Chú bé đã đẩy trả thế bí cho đối phương bằng cách đánh đố lại với ngầm ý: Nếu nhà vua rèn được cây kim này thành con dao thì tôi cũng sẽ làm được ba mâm cỗ từ thịt con chim sẻ. Tất nhiên, yêu cầu của chú đối với vua là không thể thực hiện được, do vậy sẽ không có chuyện ngược lại. Trí thông minh của chú bé thật tuyệt vời!

   Để câu chuyện tăng tính hiện thực và mức độ thuyết phục, người xưa đã đưa vào chi tiết: Hồi đó có một nước láng giềng lăm le muốn xâm chiếm bờ cõi nước ta. Để dò xem bên này có nhân tài hay không, họ sai sứ đưa sang một cái vỏ ốc vặn rất dài, rỗng hai đầu, đố làm sao xâu một sợi chỉ mảnh xuyên qua đường ruột ốc. Kiểu thử tài này thường hay thấy trong truyện dân gian về các nhân vật thông minh, tài giỏi như Trạng Quỳnh, Mạc Đĩnh Chi, Trạng Hiền ...

   Sự thách đố oái oăm ấy làm cho các vị đại thần vò đầu suy nghĩ mà không sao tìm ra cách. Nhà vua đành phải nhờ đến trí thông minh của chú bé. Nghe qua, chẳng cần suy nghĩ lâu la gì, chú bé liền hát: - Tang tình tang! Tính tình tang. Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng. Bên thời lấy giấy mà bưng. Bên thời bôi mờ, kiến mừng kiến sang. Tang tình tang ... Câu hát hồn nhiên, nhí nhảnh nhưng lại chứa đựng một giải pháp cực kì sáng suốt, tuy đơn giản, dễ dàng như một trò chơi con trẻ. Dân gian chẳng có câu: Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ đó sao? Kiến ngửi thấy mùi mỡ ắt tìm mọi cách lần sang bằng được, do vậy sợi chỉ sẽ được kéo sang theo. Đơn giản thế mà đức vua và các nhà thông thái không sao nghĩ ra. Giải pháp đó chính là trí tuệ, là kinh nghiệm của dân gian được đúc kết từ cuộc sống.

   Trí thông minh của chú bé càng ngày càng được bộc lộ ở mức độ cao hơn. Ban đầu, chú bé làm cho viên quan đi tìm người tài phải ngạc nhiên. Sau đó đến đức vua và quần thần trong triều đình. Cuối cùng, sứ thần ngoại bang cũng phải thán phục trước trí tuệ của nhân tài nước Nam. Tài trí thông minh tuyệt vời của chú bé thật xứng đáng với chức Trạng nguyên nhà vua ban tặng, xứng đáng với dinh thự nguy nga bên cạnh cung vua. Chú bé trở thành người được nhà vua tin dùng trong quá trình trị vì đất nước.

   Truyện đề cao trí thông minh của người lao động. Trí thông minh của chú bé không thể hiện qua chữ nghĩa, văn chương, thi cử mà qua thực tế cuộc sống hàng ngày. Cuộc đấu trí của chú bé xoay quanh những chuyện bình thường như đường cày, bước chân ngựa, con trâu, con chim sẻ, con ốc, con kiến vàng. Chú bé tiêu biểu cho trí tuệ dân gian được đúc kết từ đời sống và luôn luôn được vận dụng trong thực tế.

   Truyện còn mang ý nghĩa hài hước thâm thúy. Cách giải các câu đố của chú bé đều thông minh, hóm hỉnh, tạo ra những tình huống bất ngờ thú vị, đem lại tiếng cười vui vẻ.

   Trong truyện, từ dân làng cho đến các ông trạng, các nhà thông thái và vua quan đều thua tài em bé. Nhân vật em bé thông minh khiến cho mọi người yêu thích bởi tính chất hồn nhiên, ngây thơ mà sắc sảo tuyệt vời.

   Chú bé thông minh được vua phong cho chức Trạng nguyên. Trí tưởng tượng và khao khát đổi đời của người xưa được thỏa mãn. Qua truyện này, nhân dân ta muốn khẳng định sức mạnh của trí tuệ, đồng thời thể hiện tình cảm mến yêu, thán phục đối với những người hiền tài đã làm rạng danh cho gia đình, đất nước.