Đề bài:Thuyết minh về tranh Đông Hồ

Bài văn mẫu

   Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

   Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”

   Cũng như tranh làng Sình, tranh Kim Hoàng, tranh Hàng Trống…tranh Đông Hồ ở là một dòng tranh dân gian đặc sắc của Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, tranh Đông Hồ vẫn tồn tại với những nét độc đáo, tiêu biểu cho nghệ thuật dân gian nước nhà.

   Tranh Đông Hồ có tên gọi đầy đủ là tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ, xuất xứ từ làng nghề nổi tiếng thuộc xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Mặc dù có truyền thống lâu đời nhưng do dân làng không thờ tổ nghề và cũng không có tài liệu nào ghi chép cụ thể nên không ai biết rõ tranh Đông Hồ từ đầu mà có.

   Tranh Đông Hồ hấp dẫn, gần gũi với mọi người có lẽ là ở màu sắc, bố cục khuôn hình và đặc biệt là ở chất liệu tạo nên tranh hoàn toàn từ tự nhiên: từ bản khắc gỗ, giấy dó, lớp hồ điệp đến màu sắc. Giấy in tranh Đông Hồ được gọi là giấy điệp. Đây là loại giấy được người ta nghiền nát từ vỏ con điệp - một loại sò vỏ mỏng ở biển rồi trộn với hồ. Hồ này cũng được nấu từ bột gạo nếp hoặc bột gạo tẻ, có khi là cả bột sắn. Cùng với giấy điệp, màu sắc của tranh Đông Hồ cũng là quà tặng của thiên nhiên kì thú và bàn tay khéo léo, sự tìm tòi của nghệ nhân làm tranh. Màu đỏ rực rỡ chiết từ gỗ vang hay sỏi son trên núi Thiên Thai, màu vàng ấm lấy từ hoa dành dành hay hoa hòe, màu xanh mát lấy từ lá chàm - loại lá vẫn được dùng để nhuộm áo; màu đen lấy từ than gỗ xoan hay than lá tre được ngầm kĩ trong chum vại vài tháng. Chỉ với bốn màu cơ bản: đen, vàng, đỏ, xanh, các nghệ nhân vẫn làm nên những bức tranh hết sức sống động, hài hòa và vô cùng độc đáo. Sự sống động đó đều nhờ vào cách chế màu, hãm màu tỉ mỉ và khéo léo của các nghệ nhân. Sự cầu kì, cẩn thận từ cách tạo giấy đến chế màu ấy đã làm nên tuổi thọ dài lâu và vẻ đẹp bền vững của tranh Đông Hồ. Giấy điệp có thể tổn tại hơn năm trăm năm, còn màu sắc tranh Đông Hồ luôn rực rỡ, tươi sáng như lúc vừa mới in xong, không bị phai hay bay màu.

   Để hoàn thành một bức tranh, người làm tranh phải rất công phu, cẩn thận và thực hiện nhiều giai đoạn: sơn hồ lên giấy, phơi giấy cho khô hồ, quét điệp rồi lại phơi giấy cho khô lớp điệp, khi in tranh phải in từng màu lần lượt, nếu có 5 màu thì 5 lần in, mỗi lần in là một lần phơi… Cứ như thế, từng lớp, từng lớp dưới ánh sáng mặt trời lấp lánh các hình ảnh, đường nét của cảnh sắc thiên nhiên, nếp sinh hoạt của người dân cứ hiện ra làm say đắm lòng người.

    Tranh Đông Hồ có nhiều chủ đề, nội dung tranh đa dạng và phong phú nhưng được chia thành 5 loại phổ biến đó là: Tranh tâm linh, tranh lịch sử, truyện tranh, tranh chúc tụng, tranh sinh hoạt. Nhắc đến tranh Đông Hồ, có lẽ mọi người không thể không biết đến một số bức tranh tiêu biểu nổi tiếng. Bức tranh “Đám cưới chuột” ngụ ý như lời cảnh báo, nhắc nhở và răn dạy những người có chức có quyền nên sống sao cho phải đạo. Đồng thời cũng là lời nhắc nhở cho các thế hệ trẻ trong gia đình biết đối nhân xử thế. “Vinh Quy Bái Tổ” là tên của bức tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng, thường là phần thưởng vinh danh người đỗ đạt và cho cha mẹ họ hàng, làng xóm, thầy dạy. Bức tranh như lời nhắc nhở ý nghĩa cho thế hệ trẻ cố gắng nỗ lực học tập vươn tới thành công… Ngoài ra còn rất nhiều bức tranh mang ý nghĩa sâu sa khác nữa,… Như vậy, các bức tranh Đông Hồ đều mang những ngụ ý và những điều tốt đẹp mà ông cha muốn dăn dạy nhắc nhở thế hệ con cháu sau này. Các bức tranh Đông Hồ chính là những món quà tặng đại diện cho Việt Nam vô cùng đáng quý giá.

   Trước kia, tranh Đông Hồ được bán ra chủ yếu phục vụ cho dịp Tết Nguyên Đán, người dân nông thôn mua tranh về dán trên tường, hết năm lại lột bỏ, dùng tranh mới. Trải qua những thăng trầm biến cố lịch sử, đã có lúc tranh Đông Hồ bị mai một, lãng quên nhưng ngày nay, giá trị tranh Đông Hồ đang được phục hồi. Không chỉ có giá trị văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, tranh Đông Hồ còn có giá trị kinh tế và giá trị du lịch to lớn. Dòng tranh dân gian tiêu biểu này được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia và thu hút được sự quan tầm của nhiều du khách trong nước và quốc tế.

   Xã hội ngày càng phát triển, sẽ có nhiều loại tranh ra đời nhưng tranh Đông Hồ mãi là dòng tranh độc đáo của dân tộc Việt Nam. Nó không chỉ mang giá trị kinh tế mà còn là nét đẹp văn hóa của dân tộc. Vì vậy, thế hệ hôm nay hãy bảo tồn và phát huy để “màu dân tộc” sẽ mãi luôn “sáng bừng trên giấy điệp”.